Diễn biến Hải_chiến_Tsushima

Tương quan lực lượng

Hai bên có số lượng tàu chiến lớn tương đương nhau, nhưng Nhật Bản có lợi thế hơn hẳn ở các mặt khác:

  • Hạm đội Nga trang bị lẫn lộn cả tàu cũ và mới, trong số 7 thiết giáp hạm Nga thì có 4 tàu mới và 3 tàu cũ. Trong khi đó, tất cả tàu Nhật tham chiến đều là loại mới và hiện đại.
  • Hạm đội Nhật được tác chiến trên lãnh hải nước nhà, vì vậy họ có thể huy động một số lượng lớn tàu nhỏ, có vận tốc cao để tham gia tác chiến. Trong trận đánh, 37 tàu phóng lôi và 21 khu trục hạm được tung vào trận. Các tàu này có kích thước nhỏ, chỉ mang được pháo nhỏ, nhưng ngư lôi mà chúng mang theo rất nguy hiểm nếu áp dụng lối đánh áp sát trong đêm tối (và thực tế nhiều tàu chiến lớn của Nga đã bị đánh chìm do bị đội tàu này tập kích vào ban đêm)
  • Hạm đội Nhật được thực hành tác xạ thường xuyên kể từ đầu cuộc chiến, có tình trạng sức khỏe tốt và tinh thần đang lên cao, các chỉ huy Nhật phần lớn đã có kinh nghiệm thực chiến trong chiến tranh Thanh-Nhật năm 1895. Thủy thủ hạm đội Nga thì phần lớn chưa từng trải qua thực chiến, kể cả đô đốc Rozhestvensky, chuẩn đô đốc Nikolai Nebogatov và các thuyền trưởng cũng vậy.
  • Nhật sử dụng chủ yếu là đạn nổ được nhồi bằng chất nổ Shimose (một loại chất nổ mạnh do người Nhật chế tạo), có uy lực cao hơn thuốc nổ thông thường mà người Nga sử dụng.
  • Tàu của Nhật các máy đo khoảng cách (range finder) có công nghệ tiên tiến hơn hơn so với hầu hết các thiết bị cùng loại trên các tàu Nga.
  • Các tàu Nga phải hộ tống các tàu vận tải nên phải chạy chậm lại. Các tàu Nhật Bản có thể chạy với vận tốc lên đến 16 knots (30 km/h), nhưng hạm đội Nga chỉ có thể đạt đến 9 knots (17 km/h). Đô đốc Tōgō của Nhật đã sử dụng ưu thế này, ông ta đã hai lần sử dụng thành công chiến thuật "cắt ngang chữ T” để nã pháo toàn lực vào hạm đội Nga.
  • Do phải tiến hành một cuộc hành trình dài tới 18.000 dặm, thủy thủ Hạm đội Nga đã trở nên ở một tình trạng quá mệt mỏi cho một trận hải chiến

Mở màn

Lược đồ trận hải chiến Tsushima.

Hải quân Nga định lẩn trốn về Vladivostok, nên khi họ tiến về lãnh hải Nhật Bản, họ chuyển hướng khỏi các hải trình quen thuộc để tránh bị phát hiện. Tới đêm ngày 26 rạng ngày 27, Hạm đội Nga đã tiến đến eo biển Tsushima.

Đêm đó trời tối đen, nhiều sương, một làn sương mù bao trùm lên toàn eo biển, nên quân Nga có ưu thế ban đầu. Tuy nhiên đến 2:45 sáng, tàu tuần dương Shinano Maru của hải quân Nhật phát hiện ra ba ánh đèn của một tàu ở đằng xa chân trời, nên tiến lại gần để dò xét. Đó là các đèn hoa tiêu trên boong tàu cứu hộ Orel. Tới 4:30am, tàu Shinano Maru tiến lại gần con tàu kia, và nhận thấy con tàu này không mang hải pháo và có vẻ là một tàu phụ trợ. Tàu Orel nhầm chiếc Shinano Maru với một tàu khác của Nga nên không đánh động cho hạm đội, thay vào đó, nó đánh tín hiệu báo cho tàu Nhật biết là các tàu của Nga đang ở gần đó. Chiếc Shinano Maru sau đó phát hiện ra bóng dáng của mười chiếc tàu khác trong sương mù. Hạm đội Nga như vậy là đã bị phát hiện, và cơ hội để lẻn đến Vladivostok mà không bị phát giác đã mất.

Tới 4:55 sáng, Thuyền trưởng Narukawa của chiếc Shinano Maru đánh radio cho Đô đốc Togo ở Masampo rằng "Địch quân đang ở ô số 203". Tới 5 giờ, do bắt được tín hiệu radio mà phía Nga biết được họ đã bị phát hiện, và các tàu tuần dương trinh sát của Nhật đang tiến đến gần. Lúc 5:05 sáng, Đô đốc Togo nhận được tín hiệu và ngay lập tức chuẩn bị cho hạm đội của mình xuất kích.

Giao tranh bắt đầu

6:34 phút sáng, trước khi xuất phát với Hạm đội Liên hợp, Đô đốc Togo đánh điện về cho bộ trưởng hải quân ở Tokyo:

Tôi vừa nhận được tin là đã phát hiện ra hạm đội địch. Hạm đội của chúng ta sẽ thẳng tiến ra biển để tấn công và tiêu diệt đối phương.

— Togo[2]

Cùng thời gian, toàn bộ hạm đội Nhật Bản triển khai trên biển, Đô đốc Togo từ kỳ hạm Mikasa chỉ huy trên bốn mươi tàu để nghênh chiến với quân Nga. Trong khi đó, các tàu tuần tiễu của Nhật vẫn bí mật theo dõi và liên tục cứ vài phút lại báo về đội hình và hướng di chuyển của hạm đội Nga. Trời đang có sương mù làm tầm nhìn bị sút giảm, và thời tiết rất xấu. Tới 1:40 chiều, cả hai hạm đội phát hiện đối phương và chuẩn bị tác chiến. Tới 1:55 phút, Đô đốc Togo hạ lệnh trương lá hiệu kỳ Z (Z-flag):

Vận mệnh Đế quốc phụ thuộc vào kết cục trận đánh này, mỗi binh sĩ hãy tận lực thực hiện nhiệm vụ.

— Togo[3]

Khi nói câu này, ông đã vô tình lặp lại câu nói nổi tiếng của Đô đốc Nelson trước trận hải chiến Trafalgar năm 1805.

Trận đánh ban ngày

Hạm đội Nga di chuyển từ hướng nam-tây nam về hướng bắc-đông bắc, hạm đội Nhật từ hướng tây về hướng đông bắc. Đô đốc Togo hạ lệnh cho hạm đội của mình lần lượt nối nhau quay ngoặt lại, sao cho các tàu chiến của ông có cùng hướng di chuyển với các tàu Nga, mặc dù làm như vậy có thể gây nguy hiểm cho chiếc tàu đang đổi hướng. Việc chuyển hướng hạm đội 180 độ hình chữ U cuối cùng cũng được thực hiện thành công. Hai đội tàu đối diện nhau tạo thành hai đường thẳng, được giữ ở khoảng cách 6200 mét và nã đạn pháo vào nhau.

Các trận hải chiến thường bắt đầu ở khoảng cách gần, nên Đô đốc Togo đã có thể ngay tức khắc chiếm lợi thế bằng cách gây bất ngờ. Tàu chiến Nhật có thể đạt đến tốc độ 16 hải lý, nhưng hạm đội Nga chỉ có thể di chuyển với tốc độ 8 hải lý, một phần vì vướng các tàu vận tải đi theo. Đô đốc Togo lợi dụng ưu thế vận tốc này, cộng với năng lực tuyệt vời của binh sĩ dưới quyền, có được do khổ công huấn luyện, cắt ngang hạm đội Nga theo "hình chữ T" hai lần để giáng nhiều tổn thất lên hạm đội Nga.

Tốc độ bắn của hải quân Nhật hết sức xuất sắc, lên đến hơn 2.000 phát trọng pháo trong một phút. Hơn thế nữa, quân Nhật dùng một loại thuốc đạn mới, bắn vào phần thân trên các chiến hạm Nga gây ra nhiều đám cháy trên các tàu bị bắn trúng. Sự chính xác của pháo thủ Nhật khiến cho quân Nga phải kinh ngạc.

Đô đốc Rozhestvensky bị loại khỏi vòng chiến do bị một mảnh pháo bắn vào xương sọ. Hạm đội Nga mất các chiến hạm Knyaz Suvorov, Oslyabya, Imperator Aleksander III and Borodino ngay trong ngày 27 tháng 5. Phía Nhật chỉ bị một số hư hại nhẹ, chủ yếu là ở tàu Mikasa. Tới tối, Chuẩn đô đốc Nebogatov nắm quyền chỉ huy hạm đội Nga.

Trận đánh đêm

Khoảng 8 giờ tối, 37 tàu phóng lôi của Nhật và 21 khu trục hạm được tung vào trận. Các tàu khu trục đánh vào các tàu tiền phương, trong khi các tàu phóng lôi đánh vào mạn đông và nam của Hạm đội Nga. Các tàu Nhật tấn công mãnh liệt trong suốt 3 giờ không ngưng nghỉ, kết quả là trong đêm tối đã có những lần các tàu phóng lôi cỡ nhỏ của Nhật và chiến hạm Nga đâm vào nhau. Các tàu của Nga bị phân tán thành nhiều nhóm nhỏ, tìm cách đào thoát về hướng bắc. Tới 11 giờ đêm, hạm đội Nga dường như biến mất, nhưng họ để lộ vị trí của mình cho quân Nhật khi họ bật đèn pha lên, điều nghịch lý là các đèn pha này được bật lên để tìm kiếm tàu địch. Chiếc tàu chiến già nua Navarin đâm phải thủ lôi và phải dừng lại hoàn toàn, kết quả là nó bị 4 thủy lôi nữa bắn trúng và chìm. Trong thủy thủ đoàn gồm 622 người, chỉ có ba người sống sót, được quân Nhật vớt lên.

Chiến hạm Sisoy Veliki bị hư hại nặng do trúng thủy lôi vào mạn tàu và phải đánh chìm vào ngày hôm sau. Hai tàu bọc thép cũ, tàu Đô đốc Nakhimov và Vladimir Monomakh cũng bị hư hại nặng: chiếc thứ nhất bị thủy lôi đánh trúng vào mũi tàu, chiếc thứ hai đâm vào một tàu khu trục Nhật. Cả hai chiếc đều phải đánh chìm bởi thủy thủ đoàn vào sáng ngày hôm sau, chiếc tàu Đô đốc Nakhimoff ngoài khơi đảo Tsushima khi nước tràn vào tàu. Cuộc tấn công ban đêm làm hải quân Nga rất căng thẳng, vì họ đã mất hai tàu chiến và hai tuần dương hạm bọc thép, trong khi hải quân Nhật chỉ mất ba tàu phóng lôi.

Đầu hàng

Trong đêm giao tranh xảy ra, Đô đốc Togo đã có thể cho bộ phận chính yếu của hạm đội mình, gồm các tàu bọc thép nghỉ ngơi. Tới 9:30 sáng, các tàu Nga đang tìm cách chạy về hướng bắc bị phát hiện.

Tới 10:34, nhận thấy khi nhận thấy 6 chiếc tàu do mình chỉ huy bị bao vây cô lập và không còn lối thoát, tình hình đã trở nên tuyệt vọng, Đô đốc Negobatov hạ lệnh cho hạm đội đầu hàng bằng cách trương lên lá cờ mang ký hiệu XGE, có nghĩa quốc tế là đầu hàng. Tuy nhiên phía hải quân Nhật không nhận ra tín hiệu này và tiếp tục bắn bởi họ không hề có tín hiệu về sự đầu hàng trong bộ mã của mình. Ở bước đường cùng, Nebogatov đành phải hạ lệnh treo cờ Đế quốc Nhật lên tháp pháo và tắt hết động cơ, và chỉ khi đó tàu Nhật mới ngừng bắn. Tới 10:53, quân Nhật chấp nhận đầu hàng.

Tướng Nebogatov khi đó biết rằng mình sẽ bị tòa án quân sự xử tử khi trở về Nga (do hành động treo cờ kẻ thù lên trên chiến hạm), đã nói với thủy thủ của mình rằng: "Các anh còn trẻ, và sau này sẽ còn có cơ hội để làm rạng danh Hải quân Nga. Mạng sống của 2 400 thủy thủ trên những con tàu này quan trọng hơn mạng sống của một mình tôi." (năm 1906, Nebogatov bị tuyên án tử hình, nhưng sau đó Nga hoàng Nicholas II giảm án xuống còn tù 10 năm. 3 năm sau (1909) ông đã được thả nhân dịp ân xá trong ngày sinh của Nga hoàng, cuối cùng ông mất năm 1922, thọ 73 tuổi).

Tới đêm ngày 28 tháng 5, các tàu đơn lẻ của Nga còn tiếp tục bị tàu Nhật truy đuổi cho tới khi chúng bị đánh chìm hoặc bị bắt.